TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 4
Truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 là sự kế thừa, phát huy, phát triển truyền thống vẻ vang của dân tộc, của quân đội và quê hương, được hình thành, kết tinh từ trong gian lao thử thách qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 vừa mang trong mình những tinh hoa, khí phách của dân tộc, của quân đội vừa có những đặc trưng riêng của vùng đất và tư chất con người Khu 4.
Trải qua 72 năm chiến đấu xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, sự nuôi dưỡng của nhân dân, tạo điều kiện giúp đỡ của cấp uỷ, chính quyền các địa phương, của đơn vị bạn và bạn bè quốc tế, lực lượng vũ trang Quân khu đã không ngừng phát huy bản chất cách mạng, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo trong xây dựng, xây đắp nên truyền thống vẻ vang của "Bộ đội Cụ Hồ" trên quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 là sự kế thừa, phát huy, phát triển truyền thống vẻ vang của dân tộc, của quân đội và quê hương, được hình thành, kết tinh từ trong gian lao thử thách qua các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 vừa mang trong mình những tinh hoa, khí phách của dân tộc, của quân đội vừa có những đặc trưng riêng của vùng đất và tư chất con người Khu 4.
I. Những nét tiêu biểu về truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 4 đó là:
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Có ý chí quyết chiến, quyết thắng và biết đánh, biết thắng mọi kẻ thù.
- Gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một ý chí.
- Hậu phương, tiền tuyến đồng lòng, luôn vì cả nước, với cả nước.
- Có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng; đặc biệt gắn bó thuỷ chung với cách mạng Lào.
1. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Là một phần lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, 72 năm qua, trong mỗi chiến công, mỗi bước trưởng thành của lực lượng vũ trang Quân khu đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó quyết định bản chất giai cấp, ý chí chiến đấu, tình yêu quê hương đất nước, lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân của lực lượng vũ trang Quân khu. Lực lượng vũ trang Quân khu sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng cao cả của Đảng, của giai cấp, của quân đội đó là: Độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân dân thế giới. Đó là mục tiêu phấn đấu, nguyện vọng chính đáng của cả dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu. Vì vậy, lực lượng vũ trang luôn một lòng trung thành và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, gian khổ ác liệt đến đâu lực lượng vũ trang Quân khu vẫn kiên cường chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Quân đội giao phó. Tinh thần sẵn sàng xả thân, hy sinh tính mạng vì nước, vì dân đã trở thành tình cảm, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của mọi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu. Qua các cuộc kháng chiến, lòng trung thành biểu hiện tập trung nhất ở ý chí quyết tâm đánh thắng quân xâm lược, giải phóng quê hương. Ngay thời điểm khó khăn nhất, cán bộ, chiến sĩ vẫn ngời sáng một niềm tin sắt son vào Đảng vào sự tất thắng của cách mạng “mất đất chưa phải là mất nước”, kiên cường bám dân xây dựng lực lượng và đánh địch.
Nhiều người con ưu tú của quê hương Khu 4 đã trở thành biểu trưng của lòng dũng cảm như anh hùng Lâm Uý đánh giáp la cà vật lộn với giặc Pháp trên sông Kiến Giang (Quảng Bình), Cù Chính Lan dùng lựu đạn tiêu diệt xe tăng địch trên đường số 6, Tô Vĩnh Diện chèn thân cứu pháo, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Lê Mã Lương với câu nói trở thành khẩu hiệu hành động của cả một thế hệ “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, hoặc những tấm gương của các cụ dân quân Hoằng Trường (Hoằng Hoá/Thanh Hoá); 11 cô gái sông Hương, 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc... Những khẩu hiệu: “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Nhường nhà để hàng, nhường làng để xe”, “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong kháng chiến. Nhiều tên đất, tên làng Khu 4 đã trở thành những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bối cảnh quốc tế khu vực diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch phản động ráo riết chống phá cách mạng nước ta, địa bàn Quân khu 4 là một trong những trọng điểm phá hoại của chúng. Trong bối cảnh đó, lực lượng vũ trang Quân khu luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, SSCĐ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
2. Có ý chí quyết chiến, quyết thắng và biết đánh, biết thắng mọi kẻ thù
Truyền thống quyết chiến, quyết thắng và biết đánh, biết thắng được bắt nguồn từ lòng tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu lý tưởng, đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, tinh thần cách mạng tiến công, kế thừa truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất và tài thao lược của dân tộc; từ tình đoàn kết trong nội bộ, cán bộ, chiến sĩ thương yêu, tôn trọng giúp đỡ nhau; từ ý thức tổ chức kỷ luật tự giác nghiêm minh, tinh thần tự lực tự cường. Vì vậy, đã giúp lực lượng vũ trang Quân khu không chỉ có quyết tâm đánh thắng kẻ thù mà còn nêu cao tinh thần tích cực, chủ động, khắc phục khó khăn, mưu trí, sáng tạo nghĩ ra những cách đánh thông minh, độc đáo đạt hiệu suất cao.
Không chỉ trong chiến đấu mà trong xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng và biết đánh, biết thắng của lực lượng vũ trang Quân khu cũng được phát huy cao độ. Thực tiễn cho thấy khi thực hiện nhiệm vụ, dù là nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, tăng gia sản xuất, làm kinh tế hay tham gia phòng chống thiên tai, dù là lực lượng thường trực, dân quân tự vệ, dự bị động viên, hay các doanh nghiệp; dù ở đồng bằng, thành thị hay miền núi, vùng sâu, vùng xa, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu đều thống nhất ý chí và hành động, năng động, sáng tạo, đoàn kết một lòng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ với chất lượng cao nhất.
3. Gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một ý
Mối quan hệ máu thịt với nhân dân của lực lượng vũ trang Quân khu được kế thừa từ bản chất, truyền thống của Quân đội ta “quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, dưới sự lãnh đạo, giáo dục rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là con em của nhân dân được hình thành và tôi luyện trong phong trào cách mạng sục sôi của nhân dân, 72 năm qua lực lượng vũ trang Quân khu 4 luôn sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân quên mình đã trở thành phương châm hành động của cán bộ, chiến sĩ.
Trong kháng chiến, cán bộ, chiến sĩ không quản ngại hy sinh để giải phóng dân, bảo vệ dân. Khi hoà bình lực lượng vũ trang Quân khu đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, giúp đỡ nhân dân, nhất là những lúc gặp khó khăn hoạn nạn, thiên tai. Những hành động xả thân cứu người, cứu tài sản trong thiên tai, bão lụt là một minh chứng cho tinh thần sẵn sàng hy sinh quên mình vì dân ngay cả trong thời bình của lực lượng vũ trang Quân khu 4.
Là đội quân công tác, lực lượng vũ trang Quân khu đã tích cực tham gia lao động sản xuất, xung kích đến những nơi có nhiều khó khăn gian khổ, vùng sâu, vùng xa giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Quan hệ máu thịt với nhân dân chính là một trong những nhân tố quan trọng để lực lượng vũ trang Quân khu tiến bộ, trưởng thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ 72 năm qua. Các tầng lớp nhân dân coi cán bộ, chiến sĩ như con em của mình, hết lòng cưu mang, chở che, giúp đỡ nhất là những lúc khó khăn, hiểm nghèo. Nhân dân đào hầm che dấu cán bộ, chiến sĩ khi bị địch vây ráp, chăm sóc chu đáo khi bị thương. Mặc dù đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng nhân dân vẫn hết lòng thương yêu chiến sĩ “Hạt gạo cắn đôi, bát cơm sẻ nửa”, chịu đựng thiếu thốn để bộ đội được ăn no, mặc ấm. Những năm tháng chiến tranh ác liệt, dọc đường hành quân, bộ đội được động viên bởi những “quán cơm quân nhân, quán nước quân nhân” đây chính là tình người dân Khu 4 với chiến sĩ.
72 năm qua, quân và dân Quân khu 4 đã kề vai sát cánh bên nhau, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, thách thức lập nên những chiến công vang dội. Trong mọi hoàn cảnh lực lượng vũ trang Quân khu luôn một lòng, một dạ với nhân dân, tôn trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, chấp hành nghiêm kỷ luật quan hệ quân dân, để không phụ lòng tin cậy yêu mến của nhân dân, qua đó mà từng bước trưởng thành.
4. Hậu phương - tiền tuyên đồng lòng, luôn vì cả nước, với cả nước
Qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, địa bàn Quân khu 4 vừa là tuyến đầu chống giặc, vừa là hậu phương vững chắc. Trong kháng chiến chống Pháp, Khu 4 đã trở thành “căn cứ địa vững chắc thứ 2 trong cả nước sau Việt Bắc”. Trong chống Mỹ, do vị trí đặc biệt quan trọng, Quân khu 4 là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam, là huyết mạch giao thông chi viện cho các chiến trường. Sinh trưởng trên một địa bàn đặc thù như vậy, lực lượng vũ trang Quân khu 4 đã cùng với các tầng lớp nhân dân hoàn thành nhiệm vụ mà lịch sử giao phó, vừa anh dũng chiến đấu giải phóng quê hương, bảo vệ thành quả cách mạng, vừa chi viện sức người, sức của cho các chiến trường, vừa làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, xây đắp nên nét đẹp truyền thống cũng rất đặc thù của miền đất “địa linh nhân kiệt” này. Tiền tuyến gọi, hậu phương đáp lời, cả nước gọi Quân khu 4 có mặt, cách mạng Bạn gọi Quân khu 4 sẵn sàng; hậu phương - tiền tuyến đồng lòng luôn vì cả nước, với cả nước.
Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, hàng chục vạn con em Khu 4 đã lên đường nhập ngũ tham gia chiến đấu ở các chiến trường trong nước và quốc tế. Các đơn vị chủ lực nối tiếp nhau ra trận, đơn vị này lên đường, ở hậu phương lại tiếp tục tổ chức xây dựng các đơn vị khác để nối tiếp. Hàng chục vạn dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong, hàng chục triệu ngày công được huy động để phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông chi viện cho các chiến trường. Quân khu 4 là nơi tập kết, là nơi xuất phát của các đơn vị chủ lực của Bộ vào Nam đánh giặc. Nhân dân Khu 4 sẵn sàng chịu đựng thiếu thốn, cống hiến tài sản, con người cho cách mạng. Vượt qua gian khổ, hy sinh, quân và dân ở các vùng bị địch chiếm đóng đã kiên cường bám đất, một tấc không đi, một ly không rời, chiến đấu dũng cảm, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa xây dựng lực lượng, giải phóng quê hương.
Có thể nói rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc, hậu phương - tiền tuyến Quân khu 4 phối hợp nhịp nhàng, cùng chia lửa chiến đấu, vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu giỏi, chiến trường càng thắng lớn hậu phương càng phấn khởi hăng hái sản xuất, thi đua lập công. Đặc biệt trong những năm chống Mỹ cứu nước mảnh đất Khu 4 vừa xây dựng CNXH, chi viện sức người, sức của cho chiến trường, vừa phải đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng hải quân và không quân của địch để bảo đảm huyết mạch giao thông cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta ở miền Nam, vừa kiên cường chiến đấu trên mặt trận Trị Thiên, vừa giúp đỡ cách mạng Bạn thì truyền thống “Hậu phương, tiền tuyến đồng lòng, luôn vì cả nước với cả nước” được phát triển rực rỡ và là niềm tự hào của nhân dân và các lực lượng vũ trang Quân khu 4.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, truyền thống ấy tiếp tục được cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu phát huy và phát triển vào điều kiện mới, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, dựng xây đất nước ngày càng giàu mạnh, nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân.
5. Có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng; đặc biệt gắn bó thuỷ chung với cách mạng Lào
Thấm nhuần lời dạy của Bác “Giúp Bạn tức là tự giúp mình”, qua các cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang Quân khu 4 đã sánh vai cùng quân đội, nhân dân 2 nước bạn Lào và Campuchia chiến đấu chống kẻ thù chung. Các đơn vị tình nguyện của Quân khu 4 không chỉ cùng với Bạn đánh địch mở rộng vùng giải phóng mà còn giúp Bạn xây dựng cơ sở chính trị, củng cố chính quyền cách mạng, vận động nhân dân Bạn tin theo cách mạng, góp phần đưa cách mạng Lào đến thành công, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Hoà bình lập lại, lực lượng vũ trang Quân khu lại tiếp tục giúp bạn Lào trên nhiều lĩnh vực, nhiều đơn vị của Quân khu đã trực tiếp giúp Bạn trừ phỉ, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng các công trình kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa mới. Điều đó đã vun đắp cho mối tình đoàn kết giữa các dân tộc trên bán đảo Đông Dương thêm thắm mãi, góp phần xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới cùng đấu tranh chống cường quyền, áp bức bóc lột vì mục tiêu, hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Ngày nay trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, lực lượng vũ trang Quân khu hơn lúc nào hết phải tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tăng cường đoàn kết hữu nghị với quân đội các nước trong khu vực, đặc biệt là với quân đội và nhân dân nước bạn Lào vì sự ổn định và phát triển của từng quốc gia và trong khu vực.
II. Phần thưởng cao quý
72 năm xây dựng chiến đấu trưởng thành LLVT Quân khu vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng
- 02 Huân chương Sao vàng, Chủ tịch Trường Chinh ký ngày 17/8/1985 và Chủ tịch Nguyễn Minh Triết ký ngày 9/10/2010.
- 02 Huân chương Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký ngày 02/3/1979 và Chủ tịch Trần Đức Lương ký ngày 18/5/2001.
- 01 Huân chương Độc lập hạng Nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 29/8/1965.
- 01 Huân chương Độc lập hạng Nhì và nhiều Huân chương khác.
- 1047 tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (trong kháng chiến chống Pháp: 21; trong kháng chiến chống Mỹ: 990; trong BVTQ: 13; trong thời kỳ đổi mới: 23, trong đó 1 Anh hùng Lao động).
- 393 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (trong kháng chiến chống Pháp: 18; trong kháng chiến chống Mỹ: 353; trong BVTQ: 17; trong thời kỳ đổi mới: 5, trong đó 1 Anh hùng Lao động).
Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ và nhiều đơn vị trong Quân khu được tặng nhiều Huân chương, Huy chương và những phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà nước ta và Nhà nước Bạn.
Bạn vui lòng đăng nhập tại đây để gửi bình luận.