ĐẠI TƯỚNG ĐOÀN KHUÊ
Đại tướng Đoàn Khuê, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà chính trị, quân sự xuất sắc, rất mực trung thành với sự nghiệp cách mạng, suốt đời chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Suốt 60 năm hoạt động cách mạng, trải qua nhiều cương vị khác nhau, đồng chí luôn đem hết tinh thần, nghị lực và trí tuệ cống hiến cho sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại tướng Đoàn Khuê luôn gắn mình với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta trong những năm toàn dân tộc tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng và trong thời kỳ đầu đổi mới, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sinh trưởng trong một gia đình yêu nước, giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, năm 1939, lúc mới 16 tuổi, đồng chí Đoàn Khuê đã tham gia phong trào Thanh niên phản đế phủ Triệu Phong. Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, đồng chí hăng hái hoạt động, không quản gian khổ, không ngại hy sinh. Khi quân phát xít Nhật vượt biên giới Trung - Việt tiến vào chiếm đóng Lạng Sơn (năm 1940), nhân dân Bắc Sơn vùng lên khởi nghĩa. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Đoàn thanh niên phản đế Triệu Phong tổ chức rải truyền đơn kêu gọi nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn đánh đuổi Nhật - Pháp. Biết đồng chí Đoàn Khuê là Bí thư Thanh niên phản đế phủ Triệu Phong, địch ráo riết truy tìm. Ngày 30-10- 1940, đồng chí bị bắt, bị kết án tù ở nhà lao Quảng Trị, sau đó bị đưa đi đày ở Buôn Ma Thuột. Gần 5 năm trong nhà tù, đồng chí đã tỏ rõ chí khí kiên cường, bất khuất trước sự đày ải và tra tấn dã man của kẻ thù, giữ vững khí tiết kiên cường của người chiến sĩ cách mạng. Bằng hành động đấu tranh phản đối chế độ nhà tù hà khắc và chống xu hướng tiêu cực trong nội bộ tù chính trị, đồng chí được cử làm thành viên của tổ chức trung kiên có tên là "Ủy ban vận động cách mạng", làm nhiệm vụ của một chi bộ. Cũng chính thông qua thực hiện các nhiệm vụ tổ chức phân công, đồng chí được rèn luyện về phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết về cuộc sống, dày dạn trong đấu tranh với quân thù và những kinh nghiệm tổ chức, vận động quần chúng đoàn kết. Tháng 5-1945, đồng chí ra tù, về hoạt động, gây cơ sở cách mạng ở Quảng Bình; sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình. Kiên cường, bất khuất trong lao tù đế quốc, nhạy bén tranh thủ thời cơ khởi nghĩa, đồng chí Đoàn Khuê đã góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ở tỉnh Quảng Bình.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Xứ ủy và chính quyền Trung Bộ thành lập Ủy ban quân chính Khu C, gồm lực lượng vũ trang Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, do đồng chí Chu Huy Mân làm Chủ tịch, đồng chí Đoàn Khuê làm Ủy viên quân sự. Khi thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ vùng lên kháng chiến, đồng chí Đoàn Khuê được giao nhiệm vụ chỉ huy một đơn vị hoạt động ở địa bàn Liên khu 5, sau đó lần lượt được cử giữ các chức vụ: Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn 69, 73, 78, 126 và Trung đoàn 84; Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn chủ lực 108, rồi Phó chính ủy Sư đoàn 305 - sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ. Các trung đoàn, sư đoàn này phần lớn hoạt động trên các địa bàn vô cùng khó khăn, ác liệt. Là một cán bộ tận tuỵ, sâu sát cơ sở, đồng chí đã cùng cấp ủy lãnh đạo các đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ buộc đối phương phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Nước ta tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Đảng ta đã từng bước vạch ra chiến lược và phương pháp đấu tranh cách mạng để đưa cách mạng đến thắng lợi. Lúc đó, khu vực giới tuyến quân sự ở vĩ tuyến 17, bố trí lực lượng trên khu vực chiến lược này là Lữ đoàn 270. Khi cân nhắc bố trí cán bộ, Quân ủy Trung ương đồng ý với đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, cử đồng chí Đoàn Khuê đang giữ chức Chính ủy Sư đoàn 351 làm Chính ủy Lữ đoàn 270. Nhận nhiệm vụ mới, đồng chí vui vẻ lên đường và ý thức rõ trách nhiệm nặng nề mà cấp trên tin tưởng giao phó. Đồng chí đã cùng Ban chỉ huy lữ đoàn lãnh đạo chỉ huy đơn vị phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân vũ trang, Đoàn 126 Hải quân và các lực lượng khác, cùng Đảng bộ địa phương xây dựng Vĩnh Linh thành lũy thép kiên cường. Đồng chí góp phần cùng Khu ủy, Bộ chỉ huy quân sự Đặc khu Vĩnh Linh xây dựng các đơn vị vũ trang huyện Gio Linh, Cam Lộ vững mạnh, tạo dựng cơ sở cho những chiến công đặc biệt xuất sắc của quân và dân Vĩnh Linh trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Đầu năm 1963, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam bước vào thời kỳ quyết liệt. Đang giữ chức Phó chính ủy Quân khu 4, Ủy viên Quân khu ủy Quân khu 4 (từ tháng 10-1960), đồng chí được Đảng cử vào Nam chiến đấu. Suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí đảm nhiệm các chức vụ: Phó chính ủy Quân khu 5, Phó bí thư Quân khu ủy, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 5. Ở chiến trường Khu 5, một địa bàn trọng điểm, nơi đế quốc Mỹ và tay sai tập trung đánh phá ác liệt, đồng chí Đoàn Khuê đã cùng Quân khu ủy chỉ đạo hiệu quả công tác tư tưởng, xây dựng bản lĩnh, ý chí quyết tâm "Dám đánh và quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" của toàn quân khu. Trưởng thành qua chiến đấu, nhiều năm đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị, đồng chí đã nghiên cứu công phu nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng, phát huy truyền thống chủ nghĩa anh hùng cách mạng, động viên bộ đội nêu cao tinh thần dũng cảm, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Trên cơ sở vững vàng về chính trị, tư tưởng, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã nghiên cứu tìm ra cách đánh hiệu quả, góp phần đánh bại chiến thuật "Chiến xa vận" của địch. Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, đồng chí góp phần cùng tập thể Khu ủy, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 lãnh đạo quân và dân Khu 5 chiến đấu kiên cường, trở thành nơi "đi đầu diệt Mỹ" với những trận đánh nổi tiếng như Vạn Tường (tháng 8-1965), Plây Me (tháng 9-1965), Đồng Dương (tháng 12-1965), Xuân Sơn (năm 1966)... Vào thời điểm Hiệp định Pa-ri được ký kết (tháng 1-1973), trong một số đơn vị xuất hiện tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, với cương vị Phó chính ủy Quân khu 5, đồng chí đã chỉ đạo các cấp phải nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Đảng, chống ảo tưởng, mất cảnh giác, lỏng lẻo ý chí chiến đấu; đồng thời cùng tập thể lãnh đạo quân khu đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị tiến công địch, giữ vững vùng giải phóng và xây dựng lực lượng mạnh để tiếp tục chiến đấu, giành thắng lợi to lớn trong các chiến dịch năm 1974 và Xuân 1975 lịch sử.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12-1976), đồng chí Đoàn Khuê được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5; Bí thư Đảng ủy quân khu. Trên cương vị mới, đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc dựng Đảng bộ quân khu vững mạnh; cùng Đảng ủy quân khu quán triệt đường lối chính trị, quân sự của Đảng; chăm lo xây dựng các cấp ủy vững mạnh; đề cao dân chủ, nhất là dân chủ về chính trị và quân sự, phát huy trí tuệ tập thể, giải quyết đúng mọi tình huống phức tạp, khó khăn. Đảng ủy và Bộ tư lệnh quân khu, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí, đã quán triệt nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, phát huy trách nhiệm chính trị, đoàn kết thành một khối thống nhất, lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, trong đó có việc "giải quyết FULRO", góp phần ổn định tình hình chính trị xã hội, tạo điều kiện cho công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, tăng cường quốc phòng, phát triển kinh tế trên địa bàn quân khu. Đối với nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Cam-pu-chia, tháng 1-1979, Quân khu 5 đảm nhiệm một hướng chiến lược, đồng chí Đoàn Khuê trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch, đã khẩn trương chuẩn bị lực lượng, chuẩn bị chiến trường, chỉ huy tiến công địch giành thắng lợi.
Được Đảng phân công giữ chức Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh 719, Phó trưởng đoàn chuyên gia giúp bạn Cam-pu-chia (năm 1983), được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Bộ tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo đoàn chuyên gia giúp bạn Cam-pu-chia (cuối năm 1986), đồng chí đã quán triệt tư tưởng của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, "giúp bạn là tự giúp mình", chăm lo giáo dục quân tình nguyện giữ nghiêm kỷ luật, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bằng đức độ và năng lực của mình, đồng chí đã cùng tập thể Bộ tư lệnh 719, Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam ở Cam-pu-chia xác định đúng đắn các mục tiêu, nhiệm vụ giúp bạn, kịp thời đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị những nội dung quan trọng, góp phần củng cố, tăng cường sự đoàn kết giữa hai Đảng, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam – Cam-pu-chia. Hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam được nhân dân Cam-pu-chia nước bạn kính trọng và giúp đỡ. Người dân Cam-pu-chia nói rằng: Bộ đội Việt Nam là "đội quân nhà Phật, giúp nhân dân Cam-pu-chia thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc vĩ đại".
Trong công cuộc đổi mới đất nước, với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tiếp đó là Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Đoàn Khuê đã có nhiều đóng góp quan trọng, cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất nhiều chủ trương đúng đắn, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự - quốc phòng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Với tư duy chính trị - quân sự sắc sảo, đồng chí đã góp phần đánh giá tình hình thế giới, khu vực và cục diện cách mạng nước ta, các khả năng đe dọa an ninh đối với Tổ quốc và với chế độ, đề ra và tổ chức thực hiện thành công cuộc điều chỉnh chiến lược quân sự quan trọng. Trên cơ sở đó, bố trí lực lượng và tổ chức phòng thủ phù hợp trên các hướng, các địa bàn, vùng biển đảo, biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa... bảo đảm khả năng phòng thủ của từng địa phương và cả nước vững chắc trong mọi tình huống. Đồng chí là người lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, chủ trì thực hiện chủ trương xây dựng các tỉnh (thành phố), thành khu vực phòng thủ vững chắc, trực tiếp chỉ đạo nhiều cuộc diễn tập khu vực phòng thủ của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chí có nhiều đóng góp vào việc thực hiện chủ trương xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo đảm cho quân đội làm tròn mọi nhiệm vụ, cùng toàn dân giữ vững an ninh chính trị, tạo môi trường hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê đã hoạt động ở nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều chiến trường, trong đó có hơn 40 năm gắn bó máu thịt với sự nghiệp giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả. Đúc kết sự lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn phong phú, đồng chí đã viết nhiều luận văn quân sự có giá trị, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã tuyển chọn in thành 3 cuốn sách với tổng cộng 600 trang. Khi được Bộ Chính trị phân công chỉ đạo công tác tổng kết Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng, trên cương vị đứng đầu Ban chỉ đạo, đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự thành công của các công trình: "Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp-Thắng lợi và bài học", "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-Thắng lợi và bài học", "Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975-Thắng lợi và bài học". Bộ sách được nhiều học giả và bạn đọc đánh giá cao. Năm 2007, công trình "Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học" được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê là nhà chính trị, quân sự xuất sắc của Đảng, của quân đội ta, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá công lao của đồng chí, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: "Trải qua nhiều cương vị khác nhau, dù ở đâu, làm gì, đồng chí cũng luôn luôn đem hết sức mình cống hiến cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng, của quân đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn luôn trau dồi kiến thức, sâu sát cơ sở, quan tâm tổng kết thực tiễn, giữ vững tính đảng, tính nguyên tắc, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao". Đồng chí là tấm gương sáng cổ vũ chúng ta trên bước đường xây dựng đất nước giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Bạn vui lòng đăng nhập tại đây để gửi bình luận.